BBT: Bài viết tổng hợp từ bài "Khả Năng Ðòi Lại Hòang Sa và Trường Sa Trên Phương Diện Pháp Lý" của LS Ðào Tăng Dực và "Chính phủ Việt Nam không nên giấu giếm thông tin về quan hệ Việt - Trung" của giáo sư Vũ Tường.
Vấn đề tranh chấp này chưa bao giờ là đối tượng của công pháp quốc tế. Cả Trung Quốc lẫn Việt Nam đều chưa có ý định đưa vấn đề này ra công pháp quốc tế, phần vì xem chủ quyền quốc gia là tối thượng trong quan hệ quốc tế, phần vì không muốn chấp nhận rủi ro trong trường hợp Toà án này ra một phán quyết chống lại mình. Malaysia, Brunei và có thể cả Philippines dễ chấp nhận giải pháp này hơn (như mới đây Malaysia và Singapore \ kiện nhau ở The Hague về chủ quyền đối với một hòn đảo nhỏ - Singapore đã thắng trong vụ kiện này). Chưa nói đến Đài Loan mà Trung Quốc coi là một tỉnh của mình, khả năng cả Trung Quốc lẫn Việt Nam đều đồng ý đưa vấn đề ra Tòa án Quốc tế rất nhỏ (nhưng đây lại là điều kiện tiên quyết). Dù vậy, đây không phải là lý do Việt Nam loại bỏ giải pháp này khi Việt Nam là một nước yếu hơn so với Trung Quốc.
Chúng ta sẽ xét trường hợp nếu Việt Nam và Trung Quốc đồng ý sử dụng công pháp Quốc Tế.
Trên phương diện pháp lý:
Mặc dầu hệ thống luật pháp, nhất là nền luật pháp của Tây Phương, kể cả Công Pháp Quốc Tế, rất phức tạp. Tuy nhiên nếu nhìn kỹ thì cũng chỉ có 6 yếu tố quan trọng nhất liên hệ, khi giải quyết một sự tranh chấp giữa người và người hoặc quốc gia này và quốc gia kia:
1. Con người làm trọng tài hoặc quan tòa. (mediator, arbitrator or judge)
2. Những cơ chế pháp lý. (Legal institutions)
3. Những nguyên tắc pháp lý. (legal principles)
4. Những sự kiện liên hệ. (relevant facts)
5. Phong thái của mỗi bên (the conduct of each party)
6. Sức mạnh (kể cả tài chánh lẫn vũ lực) của mổi bên. (relative strength of the parties)
Trong cuộc tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Quốc, khả năng đòi lại Hoàng Sa và Trường Sa phần lớn lệ thuộc vào các yếu tố trên.
1. Một người hoặc nhiều người làm trọng tài hoặc quan tòa:
Những con người này trước hết, theo luật pháp Tây phương, đều được quan niệm là những con “người biết phải chăng” (reasonable persons). Quan điểm thế nào là “a reasonable person” là căn bản của luật pháp Tây phương. Ðịnh nghĩa của quan điểm này như sau:
“Một người biết phải chăng là một người có thể hành xử khả năng chú tâm, hiểu biết, thông minh và phán xét mà xã hội đòi hỏi nơi một thành viên của mình để từ đó bảo vệ cho quyền lợi của chính mình cũng như của tha nhân trong xã hội.” (Trích WikiAnswers)
Muốn dung hòa quyền lợi của mình và của tha nhân, để giữ quân bình trong xã hội, một "reasonable person" không bao giờ cứng nhắc và quá chấp nguyên tắc.
2. Những cơ chế có thể giúp giải quyết sự tranh chấp gồm có:
Theo nhiều bình luận gia quốc tế, sự tranh chấp giữa các quốc gia trong “South China Sea” (tên gọi khu vực biển Đông Nam Á theo cách nhìn lấy Trung Quốc làm chuẩn) có thể được giải quyết qua các phương thức sau đây:
a. Mời một nhóm người có uy tín quốc tế (Imminent persons group) để giúp các bên hòa giải.
b. Mời một đệ tam nhân được cả hai bên tôn trọng và đồng thuận đứng ra làm trọng tài hòa giải (Third Party mediation)
c. Ðưa ra Tòa án Công lý Quốc tế để xử (The International Court of Justice)
d. Ðưa ra Tổ chức Lòng Ðại dương Quốc tế để thương thảo và giải quyết (The International Seabed Organization)
Thực ra, các bình luận gia nêu trên chỉ nói một cách vô thưởng vô phạt. Thực tế thì phương thức pháp lý nào nêu trên (trừ Tòa án Công lý Quốc tế) cũng bất lợi cho chúng ta cả. Lý do là vì HS &TS là của chúng ta. Bây giờ có kẻ cướp vào đoạt lấy rồi lại đưa ra thương thuyết ngang hàng với chúng ta, làm sao gọi là công bằng cho được?
Tuy nhiên ngay cả Tòa án Công lý Quốc tế cũng chưa chắc đã thuận lợi cho chúng ta vì trên bình diện chính trị thì vấn đề này phải được chính phủ VIỆT NAM nêu ra trong Hội đồng Bảo an LHQ và trong Ðại Hội Ðồng LHQ. Ðồng thời mặc dù VIỆT NAM là ủy viên tạm thời của Hội Ðồng Bảo An, nhưng Trung Quốc lại là Ủy Viên thường trực với quyền phủ quyết tuyệt đối. Thế của VIỆT NAM không thể nào bằng thế của Trung Quốc.
3. Những nguyên tắc pháp lý:
Các nguyên tắc pháp lý được cô đọng trong Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển 1982 (The United Nations Convention on Law of the Sea). Bao gồm các nguyên tắc sau đây:
Nội thủy (internal waters): vùng biển nằm bên trong lằng thủy triều xuống thấp nhất thuộc chủ quyền tuyệt đối của quốc gia ven biển.
Lãnh hải (Territorial waters): vùng biển chạy ra 12 hải lý. Các quốc gia ven biển có chủ quyền. Tuy nhiên tàu bè quốc tế được quyền đi qua (right of innocent passage)
Vùng kinh tế đặc quyền (Exclusive economic zone): ra 200 hải lý tính từ lằng thủy triều xuống thấp nhất. Các quốc gia ven biển có quyền khai thác tài nguyên thiên nhiên như đánh cá, dầu hỏa, khoáng sản v.v…
Thềm lục địa (continental shelf): Ðược định nghĩa như vùng biển 200 hải lý tính từ lằng thủy triều xuống thấp nhất, hoặc sự nối tiếp tự nhiên của thềm lục địa (nằm dưới biển) kéo dài cho đến bìa bên ngoài của thềm lục địa, cái nào dài nhất (whichever is greater), tuy nhiên không thể đi xa hơn 350 hải lý hoặc 100 hải lý ngoài 2,500 thước isobath. Các quốc gia ven biển có đặc quyền khai thác khoán sản (minerals & non-living material) từ tầng dưới (sub-soil) của thềm lục địa (continental shelf).
4. Những sự kiện liên hệ (relevant facts):
Ðịa dư & địa lý:
*Biển Nam Hải (the South Sea) còn gọi là biển Nam Trung Quốc (The South China Sea)
*Hoàng Sa cách Trung Quốc khoảng 270 hải lý, cách Việt Nam 155 hải lý.
*Trường Sa cách Trung Quốc khoảng 750 hải lý, cách Việt Nam 220 hải lý.
Lịch sử:
Từ 1816 thời Gia Long, nước VIỆT NAM đã có Hải đội Hoàng Sa và Trường Sa.
Khi người Pháp xâm chiếm VIỆT NAM 1884 cũng đã xác nhận chủ quyền của Pháp qua chủ quyền Việt Nam (bia chủ quyền dựng năm 1938)
5. Phong thái của mỗi bên (conduct of each party)
Sau đây là phong thái và hành xử của các phe nhóm VIỆT NAM và Trung Quốc liên hệ:
1945 Trung Quốc xâm chiếm một số đảo thuộc Hoàng Sa.
1958 - Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa đưa ra tuyên bố xác định lãnh thổ biển của họ gồm cả quần đảo Trường Sa. Thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Phạm Văn Đồng gửi Thủ tướng Quốc vụ Viện Trung Quốc công hàm ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của chính phủ Trung Quốc quyết định về hải phận.
1974 Trung Quốc đánh chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa.
1975 - Việt Nam, mới thống nhất, đưa ra tuyên bố chủ quyền trên toàn bộ quần đảo Trường Sa.
1982 - Việt Nam xuất bản một cuốn sách trắng khác, chiếm nhiều đảo và xây đựng các cơ sở quân sự.
1988 - Tàu của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Việt Nam đụng độ ở đảo chìm Johnson. Các lực lượng Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa chiếm và giành quyền kiểm soát vùng đó.
1992 Trung Quốc chiếm bãi dầu khí Vạn An của Trường Sa.
6. Sức mạnh của mỗi bên (relative strength of the parties):
Trung quốc đang trên đà phát triển và xây dựng bá quyền. Việt Nam là một nước nhỏ hơn và uy thế trên trường quốc tế thua xa Trung Quốc.
Một sự thật phũ phàng là ngay cả trên bình diện công pháp quốc tế, kẻ có sức mạnh có nhiều quyền quyết định và ảnh hưởng hơn kẻ yếu. Câu nói trong thơ ngụ ngôn của Lafontaine: “la raison du plus fort est toujours la meilleure” (Cái lý của kẻ mạnh luôn luôn thắng) rất đáng lưu ý.
Kết Luận - Khả năng lấy lại:
Mặc dầu những nguyên tắc pháp lý và những sự kiện liên hệ đem lại cho chúng ta nhiều lợi điểm, tuy nhiên chúng ta vô cùng bất lợi vì những điểm sau đây:
Những người phân xử dù là những con người biết phải chăng, họ cũng chỉ là những con người bằng xương bằng thịt. Họ phải dung hòa quyền lợi và thậm chí còn phải nương theo kẻ mạnh để phân xử. Thêm vào đó, mặc dù những từ ngữ như South China Sea không có nghĩa là “cả vùng biển đó là của Trung Quốc”. Cũng như Japan Sea không có nghĩa là của Nhật Bản, hoặc English Channel không có nghĩa là của Anh Quốc. Tuy nhiên dùng danh từ như thế có ảnh hưởng tâm lý trên con người.
Còn về Công hàm của thủ tướng Phạm Văn Đồng theo giáo sư Vũ Tường thì vẫn có thể gây bất lợi cho Việt Nam, mặc dù Việt Nam cố lờ nó đi hay phủ nhận nó. Thậm chí nếu Việt Nam phủ nhận văn kiện này, Trung Quốc vẫn có thể dùng nó như một bằng cớ (trước toà án dư luận quốc tế hay trong đàm phán đa phương) để chứng tỏ lập trường thiếu nhất quán (inconsistent) của Việt Nam. Vị trí của Việt Nam trong tranh luận sẽ bị ảnh hưởng không nhỏ.
Thêm vào đó Trung Quốc có đủ sức mạnh quân sự để uy hiếp và đủ sức mạnh tài chính để mua chuộc cả đồng minh lẫn đối thủ. Chính vì thế khả năng lấy lại của dân tộc VIỆT NAM rất cam go.
Người Việt Nam nên làm gi?
Người Việt Nam nên bình tĩnh thảo luận vấn đề để tìm ra một giải pháp lâu dài. Đây không phải là một vấn đề mới, cũng không phải là vấn đề gấp gáp. Cả hai quần đảo này chỉ chiếm một diện tích đất đai khiêm tốn, trong khi việc khai thác các tài nguyên ở đó đòi hỏi những kỹ thuật mà Việt Nam chưa thể có trong nhiều thập kỷ nữa. Dĩ nhiên quyền lợi đối với Hoàng Sa và Trường Sa gắn chặt với quyền lợi trong cả một vùng biển - thềm lục địa lớn (bao trùm phần lớn Biển Đông), nhưng ngay cả nếu Trung Quốc chiếm được hai quần đảo này thì cũng không có nghĩa là họ sở hữu được cả Biển Đông, vì điều này sẽ chạm đến mối quan tâm của Mỹ, Nhật và Hàn Quốc, những quốc gia này cần bảo vệ đường thủy chiến lược từ eo biển Malacca đến Biển Nhật Bản. Mặc dù các quốc gia này đang tọa thủ bàng quan, nhưng nếu thấy Trung Quốc tiến dần đến thu góm Trường Sa, thì họ sẽ can thiệp.
Dù chúng ta không nên phóng đại vấn đề Hoàng Sa và Trường Sa, nhưng chính phủ Việt Nam không nên và không có quyền cấm đoán dân chúng biểu tình hay giấu giếm thông tin về quan hệ Việt - Trung. Đây là những quyền được đảm bảo trong Hiến pháp Việt Nam. Những người Việt quan tâm đến vấn đề này (có những người không quan tâm) phải được quyền thảo luận tự do và chất vấn các đại biểu Quốc hội của họ, hay biểu tình để Trung Quốc không coi thường Việt Nam. Chính phủ Việt Nam nên tổ chức các cuộc hội thảo nghiêm túc trong giới nghiên cứu và các trường đại học, và các ý kiến khác nhau cần phải được khuyến khích. Chính sách hiện nay của Việt Nam có vẻ đề cao quá mức việc duy trì mối quan hệ hữu hảo đối với Trung Quốc, nhưng thiếu cảnh giác trước nguy cơ lệ thuộc. Sau suốt một thập kỷ chiến tranh dai dẳng với Trung Quốc, chính sách hiện nay của Việt Nam với Trung Quốc rất khó hiểu. Cũng có thể đây là chính sách khôn ngoan, nhưng nhân dân Việt Nam cần được giải thích rõ ràng tại sao như vậy, vì họ đã và sẽ phải trả giá cho những quyết định thiếu khôn ngoan bằng chính xương máu của họ.
Nguồn: Tổng hợp từ Trung tâm Dữ liệu Hoàng Sa
Đọc tiếp...