Thứ Ba, 10 tháng 2, 2009

Biển Đông: Những điều hoang đường và sự thật của "đường lưỡi bò”9

Comments
Sau đây là bài viết nhan đề: “Biển Đông: Những điều hoang đường và sự thật của đường lưỡi bò” của tướng Daniel Schaeffer, nguyên Tùy viên quốc phòng Pháp tại Trung Quốc, Việt Nam và Thái Lan, hiện là Tư vấn cao cấp của chuyên mục “Tiêu điểm quốc tế”, tạp chí Diplomatie 36 - tháng 1 và 2/2009.Thành viên tranbong dịch và đăng trên diễn đàn Hoàng Sa

Vén bức rèm che đường lưỡi bò hoang đường.
Vấn đề đặt ra đối với Trung Quốc trong bối cảnh hiện nay là phải biết cách làm cho những đòi hỏi ẩn chứa phía sau đường lưỡi bò phù hợp với việc nước này tham gia Công ước về luật biển với những đường ranh giới của các khu độc quyền và các thềm lục địa.
Các cuộc hội kiến của các tác giả tại Việt Nam và tại Trung Quốc cho thấy Chính quyền Trung Quốc chưa bao giờ đề cập một cách chính thức đến đường lưỡi bò như một ranh giới bất khả xâm phạm đối với chủ quyền của Trung Quốc tại Biển Đông. Đây là một trong những nhân tố cơ bản đầu tiên cần nhấn mạnh. Đúng là việc duy trì biểu tượng của đường này trên các bản đồ do Bắc Kinh xuất bản tiếp tục gây ra tình trạng mập mờ về thực chất của những yêu sách của Trung Quốc, một tình trạng kéo dài xuất phát từ thực tế là hầu hết người dân Trung Quốc đều cho rằng đây đơn giản là sự khẳng định đối với “việc đã rồi” và vì thế không việc gì phải bàn đi cãi lại.
Đường lưỡi bò xuất hiện lần đầu tiên vào khoảng năm 1947, trong một tập bản đồ tư nhân (chứ không phải do nhà nước xuất bản) dưới dạng một đường nét liền được vẽ bằng tay. Cần phải có những nhiên cứu cụ thể hơn để xác định được nguồn gốc chính xác của đường này. Trong thực thế, không tìm thấy bất kỳ một tọa độ nào của những điểm khác để có thể xác định vị trí chính xác của đường lưỡi bò.
Sau khi xuất hiện, đường lưỡi bò tiếp tục thay đổi thành một đường gián đoạn 11 nét, rồi 9 nét bắt đầu từ những năm 1950, tức sau khi nước CHND Trung Hoa ra đời. Ba giai đoạn như vậy hợp thành một nhân tố quan trọng để làm cơ sở xem xét các cuộc tranh luận về sau. Những tấm bản đồ về Biển Đông và về đường lưỡi bò mà chúng ta có thể tìm thấy đều được phát hành sau năm 1950. Trên những bản đồ này có ghi những chứ cái Trung Quốc được đơn giản hóa (chứ không có các chữ cái Trung Quốc truyền thống mà những người dân tộc chủ nghĩa vẫn còn sử dụng) hoặc những chữ cái Latinh được viết theo cách phát âm (dạng viết được nhà nước Trung Hoa nhân dân chấp nhận, khác với những hệ thống chuyển biên mà Trung Hoa dân quốc đã sử dụng trước đó). Trong những điều kiện như vậy, có thể hiểu rằng một đường ranh giới như vậy không phải là sự thể hiện chính thức ý trí áp đặt chủ quyền của Trung Quốc đối với toàn bộ Biển Đông. Đúng hơn đó là đường xác định phạm vi lãnh hải mà toàn bộ phía trong của nó là đối tượng của các cuộc thảo luận mà Trung Quốc muốn tiến hành để xác định chủ quyền trước hết là của Trung Quốc, sau đó mới là của các quốc gia khác, đối với những vùng đất nổi và đôi khi cả những vùng đất chìm như trường hợp của bãi Macclesfild. Đó như thể là giới hạn mà Trung Quốc đặt ra đối với “khu vực tranh chấp”.
Nếu phân tích kỹ thì có thể thấy được nhiều chi tiết. Thứ nhất là những đường cơ sở mà Trung Quốc xác định xung quanh quần đảo Hoàng Sa. Phải nói rằng Trung Quốc diễn giải một cách quá lạm dụng Phần IV của Công ước về luật biển khi gán cho Hoàng Sa quy chế “Quốc gia quần đảo”. Thực tế, Hoàng Sa không thể có quy chế này vì không thỏa mãn các tiêu chuẩn được quy định trong Điều 46 của Công ước về luật biển, theo đó để có quy chế “Nhà nước quần đảo” thì lãnh thỏ đó phải độc lập, chỉ bao gồm các hòn đảo và hoàn toàn không có mối liên hệ với lục địa. Kể cả khi Hoàng Sa thỏa mãn 2 tiêu chuẩn cuối cùng thì nó cũng không thỏa mãn tiêu chuẩn đầu tiên, tiêu chuẩn về sự độc lập, vì đang là đối tượng tranh chấp chủ quyền giữa Việt Nam và Trung Quốc. Về logic tổng thể, cần áp dụng quy chế của các đảo đối với Hoàng Sa, tùy thuộc vào việc tại đây con người có thể sinh sống hay không như quy định trong Phần VIII của Công ước về luật biển.
Ngoài ra, chúng ta thấy rằng các đường cơ sở được áp dụng đối với Hoàng Sa không trùng với đường lưỡi bò và ngược lại. Nếu Trung Quốc không muốn mâu thuẫn với chính mình, họ không nên đặt ra những đường cơ sở xung quanh Hoàng Sa. Khi câu hỏi về mâu thuẫn này được đặt ra, người ta chỉ có được những câu trả lời mập mờ thay cho những lời giải thích có tính thuyết phục.
Chi tiết thứ hai đó là việc Trung Quốc đưa ra định nghĩa về lãnh hải của họ trong Luật ngày 25/2/1992. Trong luật này, Biển Đông không được nêu như là “biển lãnh thổ”. Chỉ có các quần đảo – một trong những cấu thành của Biển Đông – được nêu một cách dứt khoát là lãnh thổ quốc gia của Trung Quốc. Như vậy, các khu đặc quyền kinh tế của Trung Quốc cũng cần được xác định trên cơ sở của luật này.
Chi tiết thứ ba nảy sinh từ những lời phát biểu kỳ quặc của vị đại diện của một trong những viện nghiên cứu mà tác giả đã gặp khi vị này cho ràng đường lưỡi bò không phải do thể chế cộng sản tạo ra mà là sự kế thừa của thể chế dân tộc chủ nghĩa trước đây. Ta có thể hiểu: Việc đường lưỡi bò tồn tại như bây giờ không phải là lỗi của chính quyền Bắc Kinh. Nói một cách nghiêm túc hơn: Dù diễn đạt khó hiểu đi chăng nữa thì vị quan chức này cũng cho thấy rằng điều mà Trung Quốc đòi hỏi trước tiên là các bên tranh chấp phải công nhận rằng hiện đang có tranh chấp tổng thể và quan trọng hơn là họ cong nhận rằng hiện đang tồn tại những khu vực tranh chấp và thực sự đang tồn tại sự tranh chấp đối với những vùng nêu trên. Điều đó có nghĩa là:
- Trung Quốc muốn Việt Nam công nhận rằng không có trnah chấp đối với Hoàng Sa – điều mà Hà Nội không chịu. Điều mà Trung Quốc muốn đạt được ở đây là hai nước chấp nhận thực trạng được áp đặt bằng quân sự giữa hai nước trong những năm 1947-1974 và rằng vấn đề Hoàng Sa từ nay trở đi vĩnh viễn là vấn đề đã quyết với phần thắng thuộc về Trung Quốc. Nếu Việt Nam có những tư liệu đích thực có giá trị pháp lý để chứng minh rằng các vua Annam thực sự đã thực thi chủ quyền của họ trên những hòn đảo này vào thời kỳ tiền thực dân (chủ quyền này sau đó được thực dân Pháp đảm nhiệm) thì lý lẽ của Trung Quốc về chủ quyền đối với những hòn đảo này sẽ yếu hơn nhiều so với những lý lẽ của Việt Nam, kể cả khi Trung Quốc cho rằng chủ quyền của họ được thực thi đối với Biển Đông từ thời triều Song (960 – 1279). Ít nhất đó cũng là điều mà trẻ em Trung Quốc học trong các cuốn sách lịch sử của họ. Vấn đề cung cấp thêm những bằng chứng đáng tin cậy (chứ không phải cứ to mồm kêu loa “đã từ lâu các ngư dân Trung Quốc thường xuyên đến các vùng biển này”) là điểm quan trọng hiện nay và đây đúng ra phải là nhân tố cho phép xác định chủ quyền thực tế đối với Hoàng Sa.
- Trung Quốc lẩn tránh việc thảo luận thực tại của vấn đề chủ quyền đối với bãi Macclesfield, khu vực đang là "vấn đề đặc biệt" như đánh giá của một trong các chuyên gia của Trung Quốc về luật biển. Thực tế, dù không đáp ứng bất kỳ tiêu chuẩn nào của Công ước về luật biển về mặt thực tại lãnh thổ trong trường hợp như thế này vì Công ước chỉ chế định những bãi nổi hay những mỏm ngầm nhìn thấy được (trong điều 6 của Công ước có định nghĩa các bãi đá ngầm mặc dù định nghĩa này còn chưa rõ ràng), việc khẳng định chủ quyền đối với khu vực này là điều khó đối với mọi quốc gia.
- Trung Quốc có thể sẽ tỏ ra sẵn sàng thảo luận về Trường Sa để phục vụ chiến lược lừa dối để thế giới tưởng rằng Trung Quốc cũng có khả năng nhân nhượng hoặc vì Trung Quốc không có đủ các nhân tố khẳng định chủ quyền chắc chắn đối với quần đảo này. Các diễn giải như vậy càng được củng cố hơn khi Viện Nghiên cứu về Biển Đông đóng tại Haikou, rất có uy tín đối với Chính quyền Trung ương Trung Quốc, có một bộ phận chuyên nghiên cứu về TS, trong khi về các quần đảo khác thì không có bộ phận nghiên cứu chuyên trách.

Điều hoang đường khó dẹp bỏ

Tình hình nêu trên cho thấy rằng vẫn chưa thể loại bỏ đường lưỡi bò khỏi các bản đồ Trung Quốc ngày nay. Thực ra, các chuyên gia về luật biển của Trung Quốc vẫn chưa thành công trong việc thuyết phục người dân Trung Quốc, đặc biệt là dư luận xã hội, về sự cần thiết phải làm cho những đòi hỏi về chủ quyền của Trung Quốc phù hợp với các điều khoản của Luật biển để những đòi hòi này trở nên tin cậy. Đại diện cho khuynh hướng "tôn trọng pháp lý" này (hãy tạm gọi như thế) là giáo sư Lihai, người được bổ nhiệm thẩm phán tại Tòa án quốc tế về luật biển tại Hambourg tháng 8/1996, nhưng đã chết vào tháng 10/2000 khi chưa kết thúc nhiệm kỳ. Trường phái này đã được một số quan chức Trung Quốc, cả quân sự và dân sự, ủng hộ, nhưng tất cả các cơ quan nghiên cứu thì không đồng tình. Tuy nhiên, cần thấy rằng trước đó giáo sư Zhao trong một thời gian dài cũng đã cố sức bảo vệ cho giả thiết rằng khu vực được giới hạn bởi đường lưỡi bò hoàn toàn thuộc về Trung Quốc.
Ngày nay, khuynh hướng “tôn trọng pháp lý” còn đang phải đối mặt với hai trường phái truyền thống. Trường phái thứ nhất khẳng định rằng Biển Đông là biển lãnh thổ Trung Quốc, với lý lẽ là đường lưỡi bò đã có trước Công ước về luật biển, là di sản của lịch sử. Trường phái thứ hai cho rằng thể chế của Biển Đông là thể chế của một biển lịch sử như nêu trong các sách giáo khoa lịch sử, mặc dù điều này không được kiểm chứng.

Kết luận
Đường lưỡi bò có thể còn tồn tại một thời gian dài nữa mặc dù nó đang trở nên mờ nhạt trong tâm trí của một số người Trung Quốc muốn đất nước mình là một thành viên tin cậy của Công ước về luật biển. Những đòi hỏi chủ quyền của Trung Quốc đối với Biển Đông thật khó có thể biện minh. Việc từ bỏ hoàn toàn đường lưỡi bò sẽ khắc phục hoàn toàn được tình trạng mập mờ cản trở thực tiễn, làm cho các cuộc đàm phán giữa các nước trong khu vực trở nên khách quan hơn và tạo điều kiện thuận lợi cho việc cùng khai thác tài nguyên tại một số khu vực ít ỏi không tranh chấp. Cùng một số diễn biến gần đây trong khu vực, điều này có thể sẽ là một triển vọng thực tế đáng khích lệ. Việc Trung Quốc và Nhật Bản ký kết thỏa thuận cùng khai thác mỏ khí Shirabaka (theo cách gọi của Nhật Bản) cho phép hy vọng về một sự tiến triển trong tư duy của Trung Quốc liên quan đến những đòi hỏi chủ quyền của Bắc Kinh đối với Biển Đông, thậm chí có thể một ngày nào đó Trung Quốc sẽ quyết định bỏ hẳn đường lưỡi bò trong các bản đồ của họ.
Trung Tâm Dữ Liệu Hoàng Sa
Đọc tiếp...

Thứ Bảy, 7 tháng 2, 2009

Không đánh thì không giải quyết được vấn đề Biển Đông

Comments
Theo tin tức đài truyền hình GMAN của Philippine chiều ngày 28 tháng 1, thượng viện Philipine đã thông qua luật số 2699 tên là “Luật về phân định đường cơ sở lãnh hải của Phi lip pin”. Luật này đã đem hai đảo của Trung quốc là đảo Huangyan và đảo Zhongye thuộc về đảo của Phi lip pin.

Cho dù giải thích như thế nào đi nữa thì điều luật này đều là sự xâm phạm chủ quyền của Trung quốc. Vào lúc các quốc gia trên thế giới đang hợp tác để đối phó với khủng hoảng kinh tế, quan hệ thương mại Trung quốc – Phi lip pin những năm gần đây thuận lợi thì bên phía Phi lip pin tạo ra tranh chấp và căng thẳng không phải là một lựa chọn khôn ngoan.

Trung quốc và Phi lip pin tồn tại những sự khác biệt nghiêm trọng đối với vấn đề chủ quyền các đảo thuộc quần đảo Trường Sa (nguyên văn: Nam Sa). Thực tế này về mặt lịch sử hai bên Trung – Phi đã đám phán nhiều lần và đồng ý thông qua đàm phán hữu nghị tìm ra những biện pháp giải quyết những khác biệt giữa hai bên. Giữa hai nước có cơ chế hợp tác tìm kiếm thăm dò tại khu vực Biển Đông (nguyên văn: Nam hải) bao gồm ba nhóm công việc hợp tác nghề cá, bảo vệ môi trường biển và và xây dựng lòng tin.

Tháng 4 năm 2001 hai bên tiến hành hội nghị lần thứ 3 nhóm công tác về xây dựng lòng tin ở Malina. Hai bên đồng thuận cho rằng không để cho sự khác biệt ảnh hưởng đến đại cục quan hệ Trung quốc – Phi lip pin, đồng ý không sử dụng những hành động làm mở rộng hóa và phức tạp hóa tình hình và tăng cường hợp tác trong các lĩnh vực nghề cá, quân sự, nghiên cứu khoa học v.v…

Tháng 10 năm 2004 cục hàng hải Trung quốc và đội cảnh vệ bờ biển Phi lip pin lần đầu tiên diễn tập tìm kiếm bồn cát tại Malina. Nhờ sự nỗ lực của hai bên, ngày 1 tháng 9 năm 2004 tổng công ty dầu khí hải dương Trung quốc và công ty dầu khí quốc gia Phi lip pin đã ký “ Hiệp định triển khai hợp tác địa chấn khu vực biển Đông (nv: Biển nam Trung quốc)”

Tháng 3 năm 2005, Việt nam đồng ý gia nhập hợp tác Trung quốc – Phi lip pin, Công ty dầu khí của ba nước Trung – Việt – Phi ký kết “Hiệp định hợp tác địa chấn ba bên ở Biển Đông”

Như hiện nay thì Phi lip pin đã vứt bỏ Hiệp định, trực tiếp chiếm đóng hai đảo của Trung quốc.

Phi lip pin dựa vào cái gì?

Phi lip pin từng là căn cứ của Mỹ, hai nước duy trì quan hệ đồng minh thân thiết trong thời gian dài. Hai nước ký kết điều khoản cùng bảo vệ và Hiệp định tương trợ quân sự. Năm 1991 Thượng nghị viện Phi lip pin bãi bỏ Hiệp định căn cứ quân sự Mỹ - Phi lip pin, kết thúc sự đồn trú quân Mỹ ở Phi lip pin kéo dài đến 93 năm. Năm 1998 hai nước ký kết “Hiệp định thăm viếng quân sự”. Hiệp định này cho phép quân Mỹ quay trở lại Phi lip pin, hai nước khôi phục tập trận liên hợp quy mô lớn.

Sự kiện 11.9.2001 đã khiến cho hợp tác Mỹ - Phi lip pin tăng cường mạnh mẽ. Chính phủ Phi lip pin hoàn toàn ủng hộ các hoạt động chống khủng bố và chiến tranh tại Apghanistan và Iraq.

Suy nghĩ về quan hệ đồng minh và trạng thái nhận thức chung như thế nên khẩu khí của Phi lip pin càng ngày càng mạnh, đặc biệt là lúc đối mặt với Trung quốc. Thử nghĩ xem một nước liền với Trung quốc là Việt nam mà còn không sợ chiếm cướp các đảo trên Biển Đông thì một nước không có lãnh thổ tiếp giáp lại còn cách xa 1000km như Phi lip pin thì có gì mà sợ.

Bất chấp chính phủ Trung quốc nhẫn nại chứng minh chủ quyền về mặt lịch sử ở Biển Đông cũng như bất chấp Bộ ngoại giao Trung quốc đã bao nhiêu lần đưa ra phản đối nghiêm túc càng bất chấp tình cảm của nhân dân Trung quốc, Phi lip pin đã coi trọng việc hành động trước thông qua luật của riêng mình cưỡng chiếm “hợp pháp” vùng lãnh thổ vốn thuộc quản lý của Trung quốc.


Có thể kiên nhẫn được không? Ai mà kiên nhẫn!

Cùng với bất đồng về vấn đề Đài Loan, bán đảo Triều Tiên thì ở Biển Đông Mỹ, Nhật, EU chưa có dính líu trực tiếp. Họ đều không muốn bày tỏ lập trường mà làm gia tăng mâu thuẫn. Cho đến hôm nay những quốc gia này đặc biệt là Mỹ đều không bày tỏ sự ủng hộ đối với bất cứ bên nào trong cuộc tranh chấp. Mặc dù Phi lip pin một thời gian dài trở lại đây cố gắng giành lại được sự ủng hộ của Mỹ nhưng Mỹ vẫn luôn dè dặt.

Từ khi cải cách mở cửa tới nay, Trung quốc luôn kiềm chế mạnh mẽ tình cảm của mình, quân đội càng giữ gìn sự kiềm chế xung quanh Biển Đông. Thật không may là dưới ảnh hưởng của thái độ này, các nước ven Biển Đông không những không hiểu được sự ý định tốt của chúng ta ngược lại đối với một số vấn đề càng lấn tới, hung hăng đe dọa từ việc ù ù cạc cạc trở thành công khai cưỡng chiếm như hiện nay. Không nghi ngờ gì nữa, chúng đang cho rằng Trung quốc không dám đánh hoặc đã trở thành “con hổ giấy”.

Hổ giấy sẽ không ra oai nữa hay sao? Chúng thực coi Trung quốc là con mèo bị bệnh rồi sao?

Để phòng tránh những phiền phức không đáng có, Trung quốc hoàn toàn có thể dùng phương pháp hay của trị bệnh đau đầu ra giải quyết vấn đề Biển Đông.

Đầu tiên là Việt nam. Không thể phủ nhận trong các nước ven Biển Đông thì Việt nam là nước có thực lực tương đối mạnh, cưỡng chiếm các đảo ở Biển Đông (nv: Nam Hải) của chúng ta cũng là nước nhiều nhất. Đánh rắn đánh bảy tấc, bắt trộm phải bắt tướng. Cái đau khổ của Việt nam là cách thiên đường rất xa, cách Trung quốc rất xa. Thực lực của hải quân không đủ nhưng có thể ngang ngửa ở Vịnh Bắc Bộ. Lục quân mạnh. Tính sớm đến mài dao đi. Vấn đề Biển Đông hoàn toàn có thể khai đao từ trên đất liền. Trong tuần đầu tiên đưa ra cảnh cáo. Giả sử đánh không được thì cũng có cớ Việt nam bài Trung quốc nên tự vệ.

Cuộc chiến Trung – Việt năm nay không biết sẽ như thế nào. Quân đội Trung quốc chưa từng tấn công đạn đạo, thậm chí tấn công từ trên không cũng chưa có dẫn đến lúc khai chiến lực lượng bộ đội sẽ thương vong. Như hiện nay Trung quốc đã 20 năm chưa đánh trận. Điều này đối với một nước lớn không phải là một điều tốt. Quan sát môi trường xung quanh Trung quốc , tham khảo thực lực quân đội Trung quốc đánh cuộc chiến cục bộ quy mô nhỏ là được.

Dùng thực lực đánh Việt nam giết gà cho khỉ xem cho các nước khác đặc biệt là Phi lip pin.

Muốn một mũi tên bắn được hai đích? Không đánh thì không giải quyết được vấn đề gì!

Có chiến tranh thì sẽ có hòa bình. Dạy Việt nam mới giải quyết được vấn đề Biển Đông.





(Nguồn: http://bbs.news.sina.com.cn/tablefor...8434&tbid=5293 )



Đây là một số bình luận của bài viết của các thành viên trong đó có một thành viên viết rất tuổi teen là mang nồi đi luyện sắt


Vẫn cảm thấy lạ. Việt nam vẫn hơi bình tĩnh. Phi lip pin thì xuất đầu lộ diện rồi. Đằng sau chắc hẳn là có sự xúc giục của Phương Tây. Vì chuyện này đánh Việt nam? Không khéo bị Phương Tây đánh cho chạy? Việt nam mà là bảy tấc? Chả nhìn thấy. Tôi thấy chỉ có thể là ai xuất đầu lộ diện trước thì nắm lấy khai đao.

---------------


Trong đó nhất định có kì lạ nhưng Trung quốc nhất định phải đánh. Tôi giơ hai tay ủng hộ. Quyên góp nồi của nhà đi luyện sắt.

--------------


Phi lip pin dựa vào cái gì à? Cái dựa đó là “ Hiệp định hợp tác địa chấn ba bên”. Đây là hiệp định bán nước. Đã là biển của Trung quốc nhất là biển có tranh chấp sao lại có ba bên liên hợp? Đó là bạn mời người khác đến nhà. Chủ quyền là không thể thương lượng.

--------------------


Không đánh Việt nam và Phi lip pin thì không giải quyết được vấn đề gì. Chỉ có đánh mới có thể thu hồi lãnh thổ và lãnh hải đã mất.

------------------


Hiện tại không phải là lúc đánh Việt nam. Nên đẩy nhanh chế tạo tàu sân bay (hàng không mẫu hạm) và thuyền chiến lớn.

-----------------


Tốt nhất là cả cần đánh nhau, đánh nhau sẽ có người chết. Nếu chúng ta có thể làm chúng thương vong thì băm cho chúng nó chết đi.

Bài viết của thành viên Hoangsa-man trên diễn đàn Hoangsa.Org


Đọc tiếp...

Thứ Năm, 5 tháng 2, 2009

Phản ứng trong khu vực với dự luật HB 3216 của Philipines có liên quan tới quần đảo Trường Sa

Comments
Ngày 2/2/2009, Hạ viện Philipines đã thông qua dự luật HB 3216 về đường cơ sở mới của Philipines trong đó đưa một số đảo nhỏ và rặng san hô thuộc quần đảo Trường Sa (Spratlys) và bãi cạn Scarborough vào hệ thống đường cơ sở của nước này.

Trước đó, ngày 27/1/2009, Thượng viện Philipines cũng đã thông qua dự luật SB 2699 không bao gồm các đảo này trong đường cơ sở và các đảo này được quản lý theo "quy chế các đảo" của điều 121, Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển 1982.

Phản ứng trước việc này, chiều 5/2/2009, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Dũng nhấn mạnh quan điểm của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là rõ ràng.

"Chúng tôi cho rằng trong khi tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài cho các tranh chấp đối với hai quần đảo này, các bên liên quan cần tuân thủ Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 và Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), không có hành động làm phức tạp thêm tình hình, góp phần duy trì hòa bình, ổn định ở khu vực". 

Hiện các đảo thuộc quần đảo Trường Sa và bãi cạn Scarborough mà Hạ viện Philippines đưa vào hệ thống đường cơ sở mới của nước này đang được quản lý theo “quy chế các đảo” của điều 121, Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển 1982.

Sau đó, đến lượt Đài Loan ra tuyên bố nhắc lại rằng họ có hoàn toàn 'chủ quyền ở quần đảo Trường Sa' tại Biển Đông.
Theo Taiwan News hôm 04/02/2009, Bộ Ngoại giao Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan), ra tuyên bố tái khẳng định chủ quyền của họ đối với các đảo và rặng san hô tại Biển Nam Trung Hoa. 

Hiện trên thực tế Đài Loan đang làm chủ các đảo họ gọi là Đông Sa và Thái Bình. 

Đặc biệt hơn, ngoài việc tái khẳng định chủ quyền, Đài Loan mời Philippines đàm phán về phân định lãnh thổ và lãnh hải tại toàn vùng. 

Báo chí trích Thông tấn xã CNA của Đài Loan nói Đài Bắc muốn đàm phán về tranh chấp 'căn cứ vào các nguyên tắc và hiến chương Liên Hiệp Quốc'. 

Trung Quốc, Philippines, và những nước tuyên bố chủ quyền, hoặc toàn bộ, hoặc một phần, của 180 đảo lớn nhỏ và bãi đá, rặng san hộ ở Trường Sa, chưa đưa ra phản ứng. 

Malaysia và Brunei nói họ cũng có chủ quyền đối với một phần của quần đảo Trường Sa,.

Theo báo chí Philippines hôm 03/02/2009, Hạ viện nước nay đã thông qua luật xác nhận chủ quyền ở Trường Sa với số phiếu áp đảo 171-3. 

Luật Hạ viện House Bill (HB) 3216 sáp nhập nhóm đảo họ gọi là Kalayaan trong quần đảo Trường Sa và cả Scarborough Shoal vào lãnh thổ biển của Philippines. 

Văn bản của Hạ viện có sự khác biệt về một số định nghĩa so với bản của Thượng viện.

Nhưng Thượng nghị sĩ Miriam Defensor-Santiago nói Philippines hành động phù hợp với các tuyên bố trước đó về lãnh thổ, lãnh hải và việc duy trì tình trạng hiện hữu, trừ phi có thay đổi về các đảo này bằng biện pháp hòa bình. 

Giới bình luận tin rằng Philippines đang thúc đẩy tìm kiếm, khai thác dầu khí trong vùng với sự tham gia của công ty như Philippine National Oil Co. 

Nhưng báo The Nation cũng nói nghị viện Philippines chạy đua với thời gian trước hạn định đưa ra quốc tế định nghĩa mới về thềm lục địa mở rộng của nước này theo Luật Biển quốc tế. 

Theo Manila Standard Today, hạn chót này là ngày 13/05/2009 và tờ báo cũng nhắc lại rằng Bắc Kinh đã có công hàm phản đối dự luật HB 3216 ngay từ khi nó được đưa ra thảo luận tháng 12/2008.

HoangSa.Org tổng hợp tin tức từ BBCVietnameseDân Trí

Đọc tiếp...

Người theo dõi

 

Copyright 2008 All Rights Reserved Revolution Two Church theme by Brian Gardner Converted into Blogger Template by Bloganol dot com