Thứ Tư, 26 tháng 9, 2007

Thử đặt lại vấn đề Hoàng Sa - Nguyễn Nhã

Comments

"Chúng tôi cũng đặt vấn đề Hoàng Sa trước lương tri của các nhà nghiên cứu trên thế giới, xin có thái độ đối với sự chà đạp sự thực lịch sử một cách trắng trợn của người Trung Hoa…”

Cách đây vừa đúng một năm (lời người biên tập: tức năm 1974), vấn đề Hoàng Sa trở nên sôi động, nhưng rồi có vẻ như bị chìm dần.

Nhưng thật ra, biến cố “Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa” cưỡng chiếm Hoàng Sa đã, đang gieo vào lòng người Việt Nam những khắc khoải, uất hận về thân phận nhược tiểu trong khi anh em trong nhà thiếu đoàn kết. Dân tộc Việt Nam vốn là một dân tộc anh hùng, nổi tiếng bất khuất, quyết liệt chống lại mọi hình thức xâm lăng bất cứ từ đâu tới. Trong quá trình lịch sử, người Việt Nam có thể bị thất bại, nhưng cũng chỉ tạm thời trong hàng chục năm, hàng trăm năm và có thể tới hàng ngàn năm, nhưng rồi, thời cơ tới, người Việt Nam vẫn còn dẻo dai quật khởi và cuối cùng kẻ thù nào cũng bị đánh bại để Việt Nam tồn tại.

Người Trung Quốc đang cố gắng tạo hỏa mù về Hoàng Sa để cho dư luận thế giới lầm tưởng rằng quần đảo Hoàng Sa chưa rõ ràng thuộc về nước nào, nên các quốc gia đã tranh chấp nhau, để rồi kẻ mạnh đã dùng sức mạnh để thắng.

Thật ra, việc Việt Nam hành sử chủ quyền tại Hoàng Sa đã quá lâu và liên tục qua nhiều thế kỷ trước khi người Pháp đến đô hộ Việt Nam.

Mọi người Việt Nam đều biết như vậy và các sử liệu chữ Hán, Việt, Anh, Pháp, mà trong số báo này đã phần nào đăng tải, đã chứng minh việc hành sử chủ quyền của Việt Nam không thể chối cãi và không còn tranh nghị nữa.

Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa

Chính người Trung Quốc đã lợi dụng tình trạng Việt Nam bị Pháp đô hộ, chính quyền Pháp đã lơ là việc bảo vệ chủ quyền Việt Nam tại Hoàng Sa, cũng như tình trạng người Việt bất hòa để mà dần dần lấn chiếm. Chính các nhà báo Pháp như Henri Cucherousset, Alexis Elie Lacombe… vào những năm thập niên ba mươi của thế kỷ XX này đã vạch rõ những sai lầm, âm mưu mờ ám của các toàn quyền Đông Dương dung túng những xâm phạm chủ quyền của người Trung Quốc ở Hoàng Sa. Chính tạp chí Eveil Economique de l’Indochine trong nhiều số liên tiếp đề cập đến Hoàng Sa, nhất là số 741 (12-6-1932) đã đăng tải bức thư của Toàn Quyền Đông Dương Pierre Pasquier gửi cho Tổng Trưởng Thuộc Địa ở Đông Dương khi ấy đã cố ý lặng thinh, không phản ứng trước vụ các tàu của Trung Hoa vào năm 1909 đổ bộ, bắn đại bác, xâm phạm lãnh thổ mà họ biết chắc rõ đã thuộc về Việt Nam từ lâu qua các sử sách hay thực tế. Chính quyền Pháp khi ấy đã nói rằng họ muốn chờ một lúc khác thuận tiện cho người Pháp hơn để lên tiếng và hơn nữa “Hoàng Sa có thể được dùng làm món hàng trao đổi trong các vụ thương lượng về nhượng địa với Trung Hoa”.

Chính việc tiết lộ bức thư này mà tòa soạn báo Eveil Economique de l’Indochine đã bị dự thẩm Bartet ra lệnh khám xét ban đêm để tịch thu tài liệu về Hoàng Sa đã vạch những sai lầm, mờ ám của chính quyền Pháp khi ấy. Cũng trong báo Eveil Economique de l’Indochine, số 738 (22-5-1932), tr 5-6, ông Alexis Elie Lacombe đã khen mỉa mai rằng Toàn Quyền Đông Dương đã khéo ru ngủ được Bộ Thuộc Địa Pháp hầu dẹp qua một bên vụ Hoàng Sa khi Tổng Đốc Quảng Châu đã lên tiếng dành chủ quyền Hoàng Sa năm 1907 và đến năm 1909, khi tàu Trung Quốc đã 2 lần đến Hoàng Sa vào tháng 4 và tháng 6, trong lần thứ 2 đã cắm cờ Trung Quốc, bắn 21 phát súng, vị lãnh sự Pháp ở Quảng Châu có thư về Pháp báo cáo nêu sự kiện xâm phạm chủ quyền, nhưng chính quyền Pháp khi ấy lờ đi.

Thấy người Pháp làm ngơ, người Trung Quốc đã làm tới, ngày 30-4-1921, chính quyền địa phương tỉnh Quảng Đông đã ký văn thư số 831 đặt quần đảo Hoàng Sa trực thuộc hành chánh vào chính quyền Yahien, Hải Nam. Triều đình Việt Nam khi ấy chỉ còn hư vị, nhưng binh bộ thượng thư Thân Trọng Huề đã lên tiếng phản đối năm 1925.

Chính những dư luận báo chí tố cáo trên đã khiến chính quyền Pháp phải hành động và do đó mới có sự việc Pháp tổ chức chiếm hữu Trường Sa (Spratly) vào năm 1933 và thiết lập các cơ sở hải đăng, đài khí tượng, các trại lính, để lính Việt Nam và Pháp bảo vệ Hoàng Sa.

Sự việc rành rành như thế mà rồi người Trung Quốc lại lên tiếng phản đối rồi cứ tiếp tục tranh chấp đến mức dùng võ lực cưỡng chiếm.

Trong số báo đặc khảo này, với đường lối nghiên cứu khoa học khách quan, những sử liệu, sự thực đã rõ ràng, xác nhận việc hành sử chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa:

1. Ông Hoàng Xuân Hãn đã khảo cứu các sử liệu Việt Nam cũng như Tây Phương, đặc biệt sưu tầm trong Đại Nam thực lục tiền biên chính biên quyển 10 xác định chính quyền nhà Thanh (Trung Quốc) đã đối xử tử tế đối với đội Hoàng Sa vào năm 1754 bị bão trôi giạt vào Quỳnh Châu (Hải Nam) mà không phản đối gì việc hành sử chủ quyền này tại Hoàng Sa, Đại Nam thực lục chính biên đệ nhất kỷ quyển 50 cho biết vua Gia Long sai Phạm Quang Ảnh trong đội Hoàng Sa ra đảo Hoàng Sa thăm dò đường biển (1815).

Hoàng tiên sinh cũng đưa ra tài liệu của Gutzlaf viết bài “Geography of The Cochinchinese Empire” đăng trong tập san Journal of Geographical Society of London, năm 1849 tại London đã xác định tọa độ địa dư của Hoàng Sa và cho biết “Chính phủ AN NAM thấy những lợi có thể mang lại nếu một ngạch thuế đã đặt ra, bèn lập ra những trưng thuyền và 1 trại quân nhỏ ở chỗ này [Hoàng Sa] để thu thuế mà mọi người ngoài tới đây đều phải trả và để bảo trợ người đánh cá bản quốc, đồng thời cũng cho biết qua tình trạng Hoàng Sa: “cây cối cằn cỗi, thiếu nước ngọt, thủy thủ nào quên mang nước trữ bị khốn đốn”. Ngoài ra Hoàng tiên sinh còn sưu tầm bản đồ xưa từ đời Lê Thánh Tông (thế kỷ 15), hay ít ra trước thời Nguyễn Hoàng có ghi rõ Hoàng Sa, được tiến sĩ Nguyễn Tông vẽ trong Giao Châu Chí.

2. Ông Hãn Nguyên đã sưu tập tất cả những đoạn văn chữ Hán minh chứng chủ quyền Hoàng Sa, do nhiều người phiên âm dịch (có đăng cả nguyên văn chữ Hán). Tất cả gồm 11 tài liệu như Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư (giữa thế kỷ 17), Phủ biên tạp lục (1776), Dư địa chí (1821), Hoàng Việt địa dư chí (1833), Đại Nam Thực Lục Tiền Biên (1844), Đại Nam thực lục chính biên đệ nhất kỷ, quyển 50, 52, đệ nhị kỷ, quyển 104, 154, 165 (1848), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, quyển 207 (1851), Việt sử cương giám khảo lược (1876), Đại Nam Nhất Thống Chí quyển 6 (1910), Quốc triều chính biên toát yếu, quyển 3 (1925), và một tài liệu Trung Quốc, Hải quốc văn kiến lục (1744).

Các tài liệu trên cho biết chứng cớ hiển nhiên về việc hành sử liên tục chủ quyền Việt Nam qua nhiều thế kỷ ít ra từ thế kỷ 15 qua :

a) việc lập đội Hoàng Sa, đội Bắc Hải kiểm soát thường xuyên Hoàng Sa và Trường Sa. Đội Hoàng Sa thành lập từ đầu thế kỷ 17, hoạt động hàng năm 6 tháng và kéo dài đến cuối đời Tự Đức mới bị ngưng trệ vì người Pháp xâm lược. Hoạt động của đội Hoàng Sa thường xuyên nhiều thế kỷ được chính quyền Trung Quốc tôn trọng.

b) Triều đình Việt Nam sai lập miếu thờ dựng bia chủ quyền, trồng cây cối tại Hoàng Sa như năm Ất Mùi, Minh Mạng 16 (1835), và trước đó cũng đã làm.

c) Triều đình Việt Nam từng sai người đi ra Hoàng Sa điều tra, đo đạc thủy trình (Phạm Quang Ảnh 1815), sai thủy quân và đội Hoàng Sa năm 1816, vẽ bản đồ (Phạm Hữu Nhật 1836).

d) Ngư dân Quảng Ngãi, Bình Định rất quen thuộc thủy trình Hoàng Sa, từng làm hướng dẫn viên cho cả thủy quân Việt Nam.

3. Ông Lãng Hồ khảo cứu công phu những tài liệu về Hoàng Sa của các nhà biên khảo Trung Hoa, nhất là luận cứ của ông Tề Tân. Người Trung Quốc đã dẫn chứng các tài liệu thật mơ hồ, rồi cố gán ghép vào việc chủ quyền của người Trung Quốc, dù cũng đã liệt kê tài liệu nhiều đời như đời Đông Hán (cuốn Dị vật chí của Dương Phu), đời Nam Bắc Triều (Vu thành phú, của Bảo Chiêu), đời Đường (Chư phiên chí của Triệu Nhữ Quát), đời Tống (Tống sử kỷ sự bản mạt, quyển 188, chương 1, nhan đề “Nhị Vương Chi Lập”), đời Nguyên (Nguyên sử quyển 162, “Truyện Sử Bật”), đời Minh (Vũ bị chí của Mao Nguyên Nghi), đời Thanh (Hải quốc văn kiến lục Lý chuẩn tuần hải ký) đồng thời người Trung Quốc cũng dẫn chứng về ngôn ngữ học. Tất cả những tài liệu trên rất mơ hồ, không hề minh chứng chủ quyền thuộc về Trung Hoa sau khi học giả Lãng Hồ phân tích những sai lầm và dẫn chứng các sử liệu Việt Nam và trong phần kết luận, ông đã thành tâm cầu nguyện cho đoàn kết sớm trở lại với dân tộc Việt Nam.

4. Ông Quốc Tuấn đã phân tích qua những đoạn trích nguyên văn tất cả những lời tuyên ngôn luận cứ của chính quyền Trung Quốc cùng một số tài liệu tư nhân từ 1951 đến nay.

Bài khảo cứu rất công phu và đưa ra những sai lầm của tất cả các luận cứ Trung Quốc công quyền hay tư nhân.

5. Ông Lam Giang đã trình bày những giống dân miền Trường Sơn là những dân tộc đầu tiên biết rõ Đông Hải, chứng tích cổ sử cho biết người Hán không phải là người đầu tiên đã sống ở vùng phía Nam Trung Hoa cũng như Đông Hải, mà các dân bản địa trong đó có dân Bách Việt sống ở đó trước. Có di tích chàm ở Hoàng Sa và người Việt là thừa kế khi nước Chiêm sáp nhập vào Việt Nam.

6. Ông Thái Văn Kiểm nghiên cứu các sử liệu Tây Phương, dẫn chứng các vụ đắm tàu thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên (1634), Nguyễn Phúc Lan (1636), người Hà Lan đã được các chúa giúp đỡ, những tài liệu của Chaigneau, Taberd xác định năm 1816, vua Gia Long long trọng cắm cờ và chiếm hữu Hoàng Sa. Hội nghị San Francisco 1951 công nhận chủ quyền Việt Nam tại Hoàng Sa đồng thời cũng trình bày các tài liệu về sự hành sử chủ quyền tại Hoàng Sa từ thời Pháp thuộc đến nay.

7. Ông Bà Trần đăng Đại đã trích đăng nguyên văn các văn kiện xác định chủ quyền Việt Nam tại Hoàng Sa, từ thời Pháp thuộc đến nay, đồng thời trưng ra một bản đồ cổ của Taberd “AN NAM ĐẠI QUỐC HỌA ĐỒ” in năm 1838 đã xác định rõ Paracel – Cát Vàng, nằm trong lãnh hải của Việt Nam.

8. Ông Nguyễn Huy đã phỏng vấn Linh mục H. Fontaine, người Pháp nghiên cứu về thảo mộc, đã đưa tới kết luận thảo mộc tại Hoàng Sa là di tích của người Việt xưa kia ở Hoàng Sa.

9. Ông Sơn Hồng Đức cùng ông Trần Hữu Châu đã tường thuật những cuộc khảo sát của các phái đoàn chuyên viên điều nghiên binh địa hỗn hợp Việt Mỹ hay phái đoàn chuyên viên Việt Nhật tại Trường Sa trước ngày biến cố Hoàng Sa năm 1974.

10. Ông Trần Thế Đức thuật theo các nhân chứng người Việt Nam sống lâu tại Hoàng Sa, gồm có nhân viên khí tượng, các binh lính giữ nhiệm vụ trấn giữ Hoàng Sa cho tới ngày xảy ra biến cố Trung Quốc chiếm Hoàng Sa. Nhân chứng kể lại cuộc hải chiến Việt - Trung.

11. Ông Nguyễn Nhã trình bày các tài liệu văn khố (chưa công bố), của Hội Truyền Giáo Paris liên quan đến vụ đắm tàu của người Hà Lan tại Hoàng Sa 1714, người Hà Lan đã theo các ngư dân Việt Nam từ Hoàng Sa vào cửa biển Việt-Nam (Nha Trang) và được đối xử tử tế.

Đây chỉ là một nỗ lực sơ khởi của một nhóm tư nhân, eo hẹp về phương tiện, nhưng chỉ có một tấm lòng, một lương tri, tôn trọng sự thực đã chứng minh đầy đủ chủ quyền thực sự đã thuộc về Việt Nam từ lâu. Nay “Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa” đã dùng võ lực cưỡng chiếm Hoàng Sa. Một số các nhà nghiên cứu Trung Quốc đang nỗ lực đưa những tài liệu ngụy tạo, để bóp méo lịch sử, chà đạp sự thực. Chúng tôi xin lên tiếng mong mỏi nơi lương tri của các nhà nghiên cứu Trung Quốc. Sự phẫn uất của các nhà thức giả Việt Nam cũng chẳng khác có khi còn mãnh liệt hơn sự phẫn uất của các thức giả Trung Quốc đối với việc nước Nga cưỡng chiếm các vùng đất biên cương phía Bắc của Trung Quốc. Bởi Hoàng Sa không những thật sự là đất lâu đời thuộc Việt Nam mà còn là nơi hiểm yếu, về chiến lược của Việt Nam, lấy Hoàng Sa của Việt Nam chẳng khác nào bóp nghẹt Việt Nam.

Chúng tôi cũng đặt vấn đề Hoàng Sa trước lương tri của các nhà nghiên cứu trên thế giới, xin có thái độ đối với sự chà đạp sự thực lịch sử một cách trắng trợn của người Trung Quốc.

Nếu chỉ cần dùng sức mạnh để giải quyết thì chắc chắn không một quốc gia nào có thể có sức mạnh lâu dài mãi được, chưa kể hiện nay còn có kẻ mạnh hơn và như vậy hòa bình thế giới luôn bị đe dọa và số phận của các nước nhược tiểu bị đe dọa nghiêm trọng.

Chúng tôi cũng đặt vấn đề Hoàng Sa trước lương tâm của tất cả người Việt Nam, ở bên này hay bên kia, hãy đặt quyền lợi tối thượng muôn đời lên trên mọi tranh chấp nhất thời, đừng đổ lỗi cho nhau, đừng chia cách, mà hãy nhìn thẳng vào thân phận nhược tiểu để sáng suốt tìm cách bảo vệ di sản của tiền nhân. Vấn đề Hoàng Sa như thế biết đâu sẽ là khởi điểm cho các nỗ lực tìm hiểu nhau, tôn trọng lẫn nhau không chối bỏ nhau và đi tới việc ngưng chấm dứt chém giết giữa người Việt một cách phi lý và vô ích.

Chúng tôi cũng xin đề nghị bất cứ một chính quyền nào ở Việt Nam, nhất là giới chức có thẩm quyền về giáo dục hãy đem vấn đề Hoàng Sa vào trong chương trình học của sinh viên học sinh. Ngày 20-1 sẽ là ngày Hoàng Sa của Việt Nam. Thử đặt vấn đề Hoàng Sa trên đây với cả tâm huyết chân thành vậy.

(Trích: Sử Địa 29, Đặc khảo về Hoàng Sa và Trường Sa, Sài Gòn, 1975, tr 3-6, và tr 351)

Đọc tiếp...

Người theo dõi

 

Copyright 2008 All Rights Reserved Revolution Two Church theme by Brian Gardner Converted into Blogger Template by Bloganol dot com